10.2.08

Hoài niệm hoa mai

Nguyễn Lâm Cúc
Nguồn: MAIVIET (http://blog.360.yahoo.com/nguyenthithuy-harc)

Vào những ngày giữa tháng chạp, ba tôi bắc chiếc thang lên cành mai ẻo lả, cành mai oặt vẹo đi một tí, nhưng cái thang đã được tựa thật khéo léo vào một đám cành đan xen, đứng vững. Ba tôi trèo từng bước nhẹ nhàng như bước loài mèo. Nhẩn nha từng chút một, ba tôi hái lá mai một cách kiên trì như đang thưởng thức một thú chơi. Lùa tay vào cuống chiếc lá, tách khẽ ngay khớp, chiếc lá rời cành nhẹ nhàng, cách làm này tránh cho cành mai không bị trầy xước,nếu lỡ có một vết xước, ba tôi xuýt xoa y hệt như vừa làm chúng đau, khiến tôi đứng nhìn ông làm cũng phải phì cười. “Cây cỏ cũng có hồn, có tiếng nói đó con, chỉ là do ta không nghe được mà thôi”. Ba tôi nói vậy. Đám lá rời khỏi tay ông, bay lảo đảo trong gió, đáp nhẹ nhàng xuống mặt sân. Chiều tối, cây mai chỉ còn lại những chiếc cành nho nhỏ trơ trụi, chỉa lên nền trời đang sẫm tối.

Có lẽ khi ba tôi hái lá mai đã làm cho cây mai thức giấc, vì sau khi hái lá vài ba hôm, những nụ cái với lớp vỏ cứng ngủ im lìm trên cành suốt bao ngày tháng, bỗng một sớm tinh mơ cựa mình, đầu nụ, hé lộ một chút nõn xanh, rồi chúng ùa ra từng bầy, bám chi chít trên cành. Lúc này, cành mai đã đẹp lắm! Từng chụm nụ xanh ngọc bích hoàn mỹ nhón gót đứng cạnh nhau kiêu hãnh, điệu đàng. Rồi một hôm, khi trong nhà thoảng mùi hương trầm ngan ngát từ bát nhang cúng Tất niên, đầu cành mai tự bao giờ rung rung những cánh vàng, cái màu vàng mới tinh khôi, mới mướt mát làm sao. Thật khẽ, thật nhẹ, từ những bông hoa ấy, e ấp một làn hương. Đó, thông điệp của mùa xuân gửi cho gia đình tôi.

Ở Đức Linh, hầu như nhà nào cũng có một vài cây mai, có nhà có cả một vườn, còn những hàng mai cạnh bờ rào thì nhiều vô khối. Ngày xưa…Đức Linh còn có cả những rừng mai, những địa danh ngày nay còn được nhắc tới như Láng Mai, Thác Mai là những nơi cây mai từng mọc dày đặc, mùa xuân về hoa nở vàng rợp cả một miền. Ngày ấy, người Đức Linh mấy ai trồng mai, trên rừng nhiều như thế, muốn bao nhiêu chẳng được, cứ lên rừng mà chặt, việc gì mà phải trồng. Nhà tôi, năm nào cũng có một bình mai, cũng lấy từ rừng. Ba tôi nhờ người ta lấy cái vỏ đạn đại bác, làm thành một cái bình thật đẹp, có năm trong nhà tôi, tết duy nhất chỉ là cành mai vàng ấy mà thôi.

Vào khoảng 19, hay 20 tháng chạp, mọi người lên rừng chặt mai, hầu hết là đám thanh niên. Tuy nhiên, mai rừng không đẹp vì cành mảnh, nụ bé. Mai mọc rãi rác ở ven các dòng suối mới khỏe, nụ cái nhiều và to. Hai anh tôi đi mất một buổi, vác về từng ôm lớn rồi hì hục thui thui, đốt đốt. Năm ấy, sau khi bưng ngọn đèn dầu ra mồi nhóm đống lửa thui mai ở sau hè xong, anh tôi bảo thằng Út bưng cây đèn vô bếp cất. Út vì nóng lòng ra nhìn anh làm, vì anh mang mai về đồng nghĩa là tết đã đến. Lòng nó náo nức quá! Nó chạy, chân vấp vào ngạch cửa bếp, ngọn đèn dầu văng hắt vô mái tranh vách bếp. Ngọn lửa táp nhanh. Gió từ đâu kéo về thổi rần rật, trong nháy mắt ngọn lửa đã bốc cao với cột khói đen ngùn ngụt. Anh em tôi sửng sờ đến cứng cả người, há hốc miệng ra nhìn ngôi nhà thân yêu rụi tan trong đám lửa bốc cao mút qua khỏi cả ngọn cây vú sữa. Làng xóm chạy rần rần, tiếng la, tiếng kêu cứu vang dậy từ đầu thôn đến cuối xóm.

Năm ấy, căn nhà tranh mới do cả làng xúm lại giúp cất lên cho gia đình tôi cũng xong vào chiều 29 tết. Chúng tôi ăn tết trong mái tranh thơm phức mùi nắng, mùi cỏ với một bình hoa mai. Năm sau, hai anh tôi đứng nhìn thanh niên trong xóm đi chặt mai với ánh mắt thèm thuồng, ba tôi từ trong nhà bước ra, ấn vào tay hai anh cây rựa nhỏ rồi nói : “Đi sớm, có thời gian lựa cái cành đẹp đẹp con ạ” Anh tôi, lao chiếc xe đạp ra khỏi nhà như ngựa phi.

Tôi đã quá quen thuộc cái cảnh cả nhà tôi thức chờ nghe tiếng pháo giao thừa và ngắm những bông mai đầu tiên nở trong cái đêm trừ tịch. Nửa đêm, ba tôi bày một bàn hương đèn ra giữa sân, không gian thật tĩnh lặng. Ba tôi lầm bầm cầu khẩn cho chúng tôi được mạnh khỏe, ăn nên làm ra. Lúc này, trong nhà tôi đèn sáng choang, tôi đến bên cành mai nhìn trên đầu những chiếc nụ xanh nhô ra một đoạn màu vàng, sau đó một lúc, một cánh mai vàng dịu dàng hé mở bước ra khỏi chiếc vỏ lụa xanh, mang theo làn hương thoang thoảng.

Cho đến tận bây giờ, đêm giao thừa tôi vẫn còn thức nhìn mai nở, vẫn ngây ngất với niềm hạnh phúc được thấy sự kỳ diệu của một bông hoa trong giây phút trở mình bung cánh. Đã qua bao mùa hoa mai tàn nở rồi? Đã có quá nhiều đổi thay, những thay đổi ấy rõ ràng được là thêm ra về con số, về vật chất nhưng sao lòng cứ hao khuyết. Cứ mỗi khi nhìn bông mai vàng tươi tinh khôi trên cành, lòng tôi lại nao nao xao xuyến, cái gì như nhớ mong, như luyến tiếc lay động trong lòng. Và nhất là khi nhìn những cánh hoa bời bời chao rụng, vàng mỏng manh, cái vàng như được dát từ nắng mà thành, nằm lớp lớp trên mặt đất sao tiếc quá! Cái đẹp vẫn phải mất ư? Đó cũng là quy luật ư? Vẫn biết hoa tàn để nhú ra nụ quả, mà lòng buâng khuâng khôn nguôi ngậm ngùi…

Cây mai của nhà tôi được ba tôi trồng từ cái ngày gia đình tôi đến ở vùng đất này. Nó là cành mai đầu tiên chặt từ rừng về chơi tết. Qua tết, ba tôi đem cành dâm xuống một bên giếng rồi chăm tưới thế là nó sống luôn. Sau này, ba tôi bứng ra trồng ở cuối góc sân bên phải phía trước nhà. Trước khi ba tôi mất, cả gia đình tôi họp lại để nghe ba tôi phân chia tài sản cho các con. Tất cả chúng tôi không ai lấy gì. Nhà cửa, ruộng vườn đồng ý để cho cậu Út tất. “ Cái nhà muốn ở thì ở, muốn cho con cháu ở thì cho, không ở thì để làm nơi thờ tự. Tuyệt đối không được bán. Thửa đất cạnh nhà cho tùy ý, khi túng thiếu có thể bán đi mà xoay sở làm ăn. Nhưng riêng những cây mai, ba muốn cho Cúc. Cúc nó thích hoa mai, ba cho nó, để nó tự do muốn đến chặt cành mai về chơi lúc nào thì làm khi ấy, không phải xin ai nữa. Tính khí của nó tao biết, chúng mày- Ba tôi chỉ vào vợ chồng Út- nói năng bổ bã như thế nó tự ái, nó lại không đếm xỉa đâu.” Vài năm sau thì ba tôi mất. Tuy nhiên, từ khi ba tôi cho những cây mai, còn viết giấy cẩn thận bảo các anh và vợ chồng cậu Út cùng ký vào rồi giao cho tôi giữ. Tôi vẫn chưa một lần nào về chặt cành mai, tôi không nỡ. Có năm, tôi bấm bụng đi mua cành mai giá cắt cổ về chơi mấy ngày tết nhưng kiên quyết giữ những cây mai của ba vẹn toàn.

Mai già, mai lão bỗng có giá. Người thành phố về lùng sục khắp nơi, đào đào, bới bới, chuyên chuyên, chở chở. Làng quê mất dần những cây mai đẹp dáng, đẹp hoa, mất cả những kỷ niệm khi giá những gốc mai trở thành một gia tài, nhất là những cây mai từ bốn chục, năm chục năm tuổi. Những cây mai của tôi nằm trong số ấy. Một ngày kia, tôi về thăm ngôi nhà cũ, thăm những cây mai đã gắn với tôi tình thâm và quá nhiều kỷ niệm… Hỡi ôi hàng mai đã biến mất! Chỗ ấy chỉ còn là một khoảng trống với những bụi cỏ dại. Nghe đâu, cậu Út bán vài triệu từ lâu rồi.

Cho đến bây giờ, khi ngồi viết những dòng này tôi vẫn chưa hề hỏi cậu Út vì sao bán hàng cây mai. Tôi sợ lời phân bua và cái kết quả mà tôi được nghe. Thôi, cứ để hàng cây sống trong hoài niệm của tôi với những Láng Mai, Thác Mai vì sau này, rừng mỗi ngày một lùi xa. Láng Mai quê tôi biến mất, Thác Mai chỉ còn trơ thác, và ngay cả việc vì sao người ta lại gọi thác ấy là Thác Mai số người biết cũng ít dần đi thì cây mai mới thật sự về ở trong vườn của mỗi nhà. Dù vậy, hoa mai cũng là một nét đẹp riêng của người dân Đức Linh.

Nhà thơ, nhạc sĩ Đào Hữu Thức đến Đức Linh thăm chơi vào một mùa xuân ngạc nhiên thốt lên: “Trời ơi, cái quán nhậu thịt chó tuềnh toàng mà cũng chơi vườn mai hoành tráng luôn! Đi đến đâu, bất cứ nhà hay ngõ đều gặp hoa mai. Sướng thật.” Bài thơ Mai Đức Linh cũng được ông viết trong thời gian ấy với những câu:

“…Lạ thật, một cành cây già cỗi
Tưởng như đã héo, đã khô giòn
Bỗng nức ra được chồi xanh biếc
Và nở lung linh sắc hoa vàng…”

Nguyễn Lâm Cúc đăng lần đầu ngày 6/1/2007



Tags: maiviethoainiemhoamai

1 nhận xét:

QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI



Hoàng Kim


Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà không thấy sách báo nào nhắc đến hơn ba mươi năm qua.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

Tôi đã giới thiệu những bài thơ Qua đèo Ngang xướng họa này tại trang DAYVAHOC (http://blogtiengviet.net/DAYVAHOC), THƠ CHO CON (http://my.opera.com/hoangkim1) và thầy tôi Nguyễn Khoa Tịnh đã có bài thơ cảm động "Em ơi em can đảm bước chân lên!" viết từ thuở ấy! Tôi đã đăng ở trang này (http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam) để minh chứng sự thật đó.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ "Nguyên tiêu" nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ "Trung Nam Hải" từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ trên của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới có khác một chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ "Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân" và không đơn giản dịch là "Tìm bạn không gặp". Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam "chiến đấu trong vòng vây"; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.