5.12.09

Bài giảng đầu tiên



THUNG DUNG. Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Người hạnh phúc là người biết sống thung dung, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhỏm.



Bài giảng đầu tiên của Phật

Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp - là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch). Bộ phim về cuộc đời đức Phật do BBC dàn dựng năm 2001 đã giới thiệu khái quát về cuộc đời đức Phật.

Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới : 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; 2) Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chêt; 4) Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người. 5) Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !”

Khoa học và Bí mật Tâm linh

Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert).

Khoa học và thực tiễn, Kinh Phật, Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại.
http://www.blogger.com/img/blank.gif
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

Hoàng Kimhttp://www.blogger.com/img/blank.gif

Xem thêm: Tuyệt tác Video Xuân Hạ Thu Đông Xuân


Spring, Summer, Autumn, Winter... & Spring

Chín mươi thì kể xuân đà muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn

Nguyễn Bỉnh Khiêm

http://youtu.be/EII4ZmT47Oc



Phần 1

http://youtu.be/0pA100vDJbI


phần 2


http://youtu.be/zqS4tYBFLIs



phần 3http://www.blogger.com/img/blhttp://www.blogger.com/img/blank.gifank.gif


http://youtu.be/KxTy2cFAF4I



phần 4
http://www.blogger.com/img/blank.gif
http://youtu.be/kQp0yDO23SM


phần 5


http://youtu.be/Lq_LMweGtH8
http://www.blogger.com/img/blank.gif

phần 6

http://youtu.be/Lq_LMweGtH8


phần 7
http://www.blogger.com/img/blank.gif
http://youtu.be/42WEs-pYm-Y


http://www.blogger.com/img/blank.gif
phần 8

http://youtu.be/hFk-khy529s



phần 9http://www.blogger.com/img/blank.gif

http://youtu.be/u5wtfNd98dc



Phần 10

http://youtu.be/LSCwbkJrXhU

_____

Phụ lục bài hát trong phim:

http://youtu.be/ALXWiJji9xk

4.10.09

Thung dung



Suối nguồn minh triết ông cha
“Nhất thì nhì thục” “thời là tùy duyên”


Nối vần thơ Đợi (1) dài thêm
Sương tan đợi nắng, hết đêm lại ngày
Tri âm đợi bạn mà say
Nuôi con đợi lớn, trồng cây đợi người

Nhọc nhằn đợi lúc thảnh thơi
Qua hồi vất vả, biết thời thung dung.
Đi xa đợi lúc về gần
Cơm thơm thời biết ăn cùng cá kho

Chàng văn thì đợi nàng thơ
Rồng vàng cá bạc đợi mùa nước lên
Rượu ngon biết đợi bạn hiền
Trà thơm chờ nước, tay tiên đợi đàn

Đông tàn thời biết xuân sang
Bên thầy bên bạn, mình làm thung dung.


(Ghi chú hình ảnh từ trái sang phải: Trịnh Trường Giang, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Văn Bộ, Bùi Huy Hợp, Nguyễn Ngọc Thùy - Đồng Nai 2009)
______

1) ĐỢI

Ngày dài đợi tháng đợi năm
Bông hoa đợi quả, mảnh trăng đợi tròn
Đất cày thì đợi xanh non
Rét nhiều đợi ấm, nắng còn đợi mưa

Xa nhà người đợi thăm nhà
Cơn say đợi tỉnh, người xa đợi mình
Chiến tranh thì đợi hoà bình
Trẻ con đợi lớn, trái xanh đợi vàng

Sách thì đợi mở sang trang
Giấy đang đợi viết, mất đang đợi tìm
Đèn cầy đợi đốt mình lên
Tình yêu thì đợi trái tim tuyệt vời

Bao nhiêu chờ đợi trên đời
Bỗng dưng anh hiểu khi ngồi đợi em !

1.10.09

Ngôi sao vừa khuất, vừng dương lại ngời



THUNG DUNG Đông tàn ắt tới xuân sang Ngôi sao vừa khuất, vừng dương lại ngời Giọt sương sớm, nắng ban mai Một vùng tươi mát, một trời yêu thương. (HK) Nhâp đại định cùng đạo sư Duy Tuệ xướng họa cùng Phú Tuệ, tưởng nhớ Hồng Công

Vừa vui thú chốn điền viên
Lại lên núi Chúa gặp tiên trên trời
Hai Bu nghĩ thật tuyệt vời
Phủi tay thế sự, dạo ngoài thiên thai.(HK)

Thiên thai chẳng hết ưu hoài
Bồng Lai tiên nữ các đài không eo
Liễu trong Bình Ngọc héo qoeo
Nước còn nguyên đó, ngài theo cõi trần. (PT)




Cõi tiên dẫu đẹp bội phần
Ta về cõi chợ theo chân bạn hiền
An nhàn vô sự là tiên
Tiêu dao đồng ruộng, dạo miền thiên thai.

Bồng lai đâu chỉ cõi ngoài
Tiên đời thường ở trong người đấy thôi
Sáng ra chưa tỏ mặt người
Đã nghe chim hót rộn trời cuối thu. (HK)



Đêm thời một giấc trơn tru
Thảnh thơi đầu óc, chẳng ư mộng gì
Hừng Đông tỉnh giấc li bì
Thong dong dẻo bước, an bình rong chơi.

Vốn thu lá rụng cành rơi
Vui nhờ gió bấc mà khơi lửa hồng
Thạch Bàn bặt tiếng tiên ông
Hỏi ra mới biết, trời đông cơ tàn. (PT)

Nghe thơ thoáng thấy lời thương
Qua thăm mới hiểu em đương chuyên buồn
Mừng em xử thế an nhiên
Nụ cười, khóe mắt vượt trên cõi phàm

Đông tàn ắt tới xuân sang
Ngôi sao vừa khuất, vừng dương lại ngời
Giọt sương sớm, nắng ban mai
Một vùng tươi mát, một trời yêu thương. (HK)

30.8.09

Kênh ông Kiệt giữa lòng dân



Gửi KH

Thơ cho em giữa tháng năm này
Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt
Là con kênh xanh mang dòng nước mát
Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên

Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân

Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm

Em ơi khi nuôi dạy con
Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.

Hoàng Kim

Loạt bài KÊNH ÔNG KIỆT trên các báo:
Kênh ông Kiệt tắm mát đồng bằng (HỌC MỖI NGÀY điểm Báo An Giang, Đại học An Giang)
Từ kênh Vĩnh Tế đến kênh Võ Văn Kiệt (Quốc Việt, Báo Tuổi Trẻ)
Kỳ 5: Đào kênh T5
Kỳ 4: Dấu chân lấm bùn của ông Sáu Dân
Kỳ 3: Thương hồ Vĩnh Tế
Kỳ 2: Trấn giữ biên giới
Kỳ 1: Hào lũy đất phương Nam
Kênh ông Kiệt (Võ Ngọc- Bảo Châu, Báo Đất Việt)

KÊNH ÔNG KIÊT TRONG LÒNG TÔI
(ảnh tư liệu của Hoàng Kim)



Tri Tôn Tịnh Biên là những huyện khó khăn cuả tỉnh An Giang, có nhiều người nghèo



Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với "Kênh ông Kiệt" đã mang nguồn nước ngọt về ruộng



Giống lúa KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo.



Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân


Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên



Ông Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch tỉnh) cùng anh Ngô Vi Nghĩa với giống mì ngắn ngày trên ruộng tăng vụ



"Kênh ông Kiệt" và vùng đất An Giang cũng là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc (ảnh Thầy Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Phó Chủ tịch tỉnh An Giang với giống mì KM98-1)



Kênh ông Kiệt trong lòng tôi! (ảnh tác giả đang chọn giống mới ở vùng đất Tri Tôn, Tịnh Biên)

15.8.09

Sau bão




Gió to, bão lớn qua rồi
Cây thì tơi tả, cỏ thời vẫn xanh
Trời quang trở lại trong lành
Nhớ con chim sáo lanh chanh góc vườn.


Hoàng Kim
(Ảnh: Cây bồ đề vườn HK)

CÂY CỔ THỤ SAU BÃO

Cây sồi thần tiên này là một trong những điểm hút khách du lịch nhất ở Charlestone, Nam Carolina. Nó đứng vững sau bao trận động đất,lụt lội và can thiệp của con người. Năm 1989, trận bão Hurricane Hugo đã tàn phá dữ dội vùng này nhưng sau bão cây sồi già vẫn bình phục.



(Ảnh từ Internet)

24.7.09

Nước mắt đời người rơi rơi lặng lẽ


THUNG DUNG. Sớm nay, nhận email của anh Phạm Xuân Liêm, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài viết Người Mỹ dạy bài học 'Cô bé lọ lem' như thế nào? mà xúc động ứa nước mắt. Tuổi tôi đã trãi nghiệm qua nhiều điều và không dễ khóc nhưng nước mắt đời người đã rơi lặng lẽ ... Sâu thẳm trong lòng tôi là sự biết ơn những người Thầy bằng những bài học giản dị của cuộc sống đã khai mở, giác ngộ cho tôi đủ niềm tin và nghị lực để vượt qua những trở ngại, khó khăn và biết sống có ích hơn cho mọi người. Cái gốc của sự học là học làm người. Một bài giảng hay phải là một bài giảng đầy trách nhiệm, tâm huyết và thực sự có ích, thực sự cần thiết. Lắng sâu trong những email, cảm nhận của bạn, của thầy là sự trân trọng, tin cậy, yêu thương... Lưu lại bài giảng "Cô bé lọ lem" để thay lời muốn nói... Ảnh: Dưới đèn KH

NGƯỜI MỸ DẠY BÀI HỌC "CỌ BÉ LỌ LEM" NHƯ THẾ NÀO ?

VnExpress - Thứ Tư, 15/7/ 2009. Các thầy cô giáo thử nhìn lại xem mình đã dạy được cho học sinh mình bằng bao nhiêu % kiến thức và giá trị. Đã dùng cách nào để dạy học sinh, làm các em thích "văn của xã hội" hơn " văn của giáo dục" là lỗi ở đâu.

Người gửi: Nguyễn Hữu Tân

Tôi là một người của xã hội nửa cũ nửa mới. Tôi có cảm nhận rằng học sinh bây giờ có điều kiện về vật chất rất tốt nhưng điều kiện tinh thần vươn lên thì rất yếu. Xung quanh các em bây giờ có quá nhiều điều cám dỗ, nhiều sự hấp dẫn mang tính "hội đồng" lôi kéo, rủ rê. Các em thì không được trang bị đầy đủ những kiến thức, những bản lĩnh để đứng vững trong môi trường sống. Tôi không nói cụ thể về những vấn đề mà các em đang gặp phải.

Nói về nguyên nhân dẫn tới hướng tư duy, cách tiếp nhận cuộc sống thì trước hết không ai có quyền trách các em mà phải hướng tới việc trách những bậc phụ huynh, không chú ý quan tâm tới việc giáo dục, định hướng cho con em mà chỉ tập trung vào việc đối phó với "kinh tế".

Còn nữa, đó là trách nhiệm của các thấy cô giáo, giả dụ như môn Văn. Nói chính xác ra liệu có thầy cô giáo nào dạy văn lại có thể toàn tâm toàn ý hiểu được đúng giá trị của các tác phẩm văn học, hay chỉ ép học sinh hiểu theo đúng giáo trình, đúng ý của giáo viên.

Có phải các thầy cô giáo hiểu được giá trị thực tế của các tác phẩm cũng có thể diễn đạt, trình bày, dạy dỗ cho các em với tư duy của "người lớn" áp cho tư duy của "nhi đồng" hay không? Các thầy cô giáo có bao giờ tự hỏi lại mình xem mình đã làm được gì đúng nghĩa với trách nhiệm giáo viên, những gì đã làm được, những gì chưa làm được.
Bản thân vợ tôi cũng là một giáo viên, cô ấy gặp phải nhiều học sinh ở trong một xã hội mới "đổi đời" nhờ quy hoạch. Học sinh rất hư, có thể nói là "vô văn hóa". Và vợ tôi cũng rất nóng tính. Điều hệ quả tất yếu là có học sinh nữ lớp 9 (lưu ban 2 năm) sau giờ học bị vợ tôi cho một cái tát vị tội quá xấc xược đã kéo một nhóm bạn trai đầu xanh đầu đỏ tới cổng trường định hành hung. Sự việc đã phải nhờ tới công an can thiệp".

Với những định kiến về giáo viên bây giờ, có thể vợ tôi sẽ được ra giới "truyền thông" để "vinh danh tên tuổi" nhưng may mắn là "không". Như chúng tôi, như các bạn ngày xưa, sợ thầy cô giáo hơn sợ bố mẹ. Còn các em bây giờ "sợ không được chơi, sợ không được thể hiện cái tôi cá nhân hơn bất kỳ cái gì".

Hôm qua, tôi có đọc một bài dịch trên một blog rất có giá trị, tôi đã in ra và đưa vợ tôi nghiên cứu. Nếu dạy được học sinh là một cái tốt, còn nếu không dạy được học sinh thì cố gắng sau này dạy con.

Tôi xin gửi bài viết đó ở dưới đây để các thầy cô giáo nhìn lại xem mình đã dạy được cho học sinh mình bằng bao nhiêu % kiến thức và giá trị. Đã dùng cách nào để dạy học sinh, làm các em thích "văn của xã hội" hơn " văn của giáo dục" là lỗi ở đâu:

NGƯỜI MỸ DẠY BÀI HỌC "CÔ BÉ LỌ LEM" NHƯ THẾ ĐẤY!


Giờ học văn bắt đầu. Hôm nay thầy giảng bài Chuyện Cô bé Lọ Lem.

Trước tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh kể xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.

Thầy: Các em thích và không thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa rồi?

Học sinh (HS): Em thích Cô bé Lọ Lem Cinderella ạ, và cả Hoàng tử nữa nhưng không thích bà mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng yêu, lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia đối xử tồi với Cinderella.

Thầy: Nếu vào đúng 12 giờ đêm mà Cinderella chưa kịp nhảy lên cỗ xe quả bí thì sẽ xảy ra chuyện gì?

HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu như ban đầu, lại mặc bộ quần áo cũ rách rưới tồi tàn. Eo ôi, trông kinh lắm.

Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những người đúng giờ, nếu không thì sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngoài ra, các em tự nhìn lại mình mà xem, em nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc luộm thuộm mà xuất hiện trước mặt người khác. Các em gái nghe đây: các em lại càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp bạn trai mà em lại mặc luộm thuộm thì người ta có thể ngất lịm đấy (Thầy làm bộ ngất lịm, cả lớp cười ồ). Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà mẹ kế kia thì em có tìm cách ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử hay không? Các em phải trả lời hoàn toàn thật lòng đấy.

HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em cũng sẽ ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội.

Thầy: Vì sao thế?

HS: Vì... vì em yêu con gái mình hơn, em muốn con mình trở thành hoàng hậu.

Thầy: Đúng. Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như đều chẳng phải là người tốt. Thật ra họ chỉ không tốt với người khác thôi, chứ lại rất tốt với con mình. Các em hiểu chưa? Họ không phải là người xấu đâu, chỉ có điều họ chưa thể yêu con người khác như con mình mà thôi.
Bây giờ thầy hỏi một câu khác: Bà mẹ kế không cho Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử, thậm chí khóa cửa nhốt cô bé trong nhà. Thế tại sao Cinderella vẫn có thể đi được và lại trở thành cô gái xinh đẹp nhất trong vũ hội?


HS: Vì có cô tiên giúp ạ. Cô cho Cinderella mặc quần áo đẹp, lại còn biến quả bí thành cỗ xe ngựa, biến chó và chuột thành người hầu của Cinderella.

Thầy: Đúng, các em nói rất đúng. Các em thử nghĩ xem, nếu không có cô tiên đến giúp thì Cinderella không thể đi dự vũ hội được, phải không?

HS: Đúng ạ.

Thầy: Nếu chó và chuột không giúp thì cuối cùng Cinderella có thể về nhà được không?

HS: Không ạ.

Thầy: Chỉ có cô tiên giúp thôi thì chưa đủ. Cho nên các em cần chú ý: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đều cần có sự giúp đỡ của bạn bè. Bạn của ta không nhất định là tiên là bụt, nhưng ta vẫn cần đến họ. Thầy mong các em có càng nhiều bạn càng tốt. Bây giờ, đề nghị các em thử nghĩ xem, nếu vì mẹ kế không muốn cho mình đi dự vũ hội mà Cinderella bỏ qua cơ hội ấy thì cô bé có thể trở thành vợ của hoàng tử được không?

HS: Không ạ! Nếu bỏ qua cơ hội ấy thì Cinderella sẽ không gặp hoàng tử, không được hoàng tử biết và yêu.

Thầy: Đúng quá rồi! Nếu Cinderella không muốn đi dự vũ hội thì cho dù bà mẹ kế không ngăn cản đi nữa, thậm chí bà ấy còn ủng hộ Cinderella đi nữa, rốt cuộc cô bé cũng chẳng được lợi gì cả. Thế ai đã quyết định Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử?

HS: Chính là Cinderella ạ.

Thầy: Cho nên các em ạ, dù Cinderella không còn mẹ đẻ để được yêu thương, dù bà mẹ kế không yêu cô bé, những điều ấy cũng chẳng thể làm cho Cinderella biết tự thương yêu chính mình. Chính vì biết tự yêu lấy mình nên cô bé mới có thể tự đi tìm cái mình muốn giành được. Giả thử có em nào cảm thấy mình chẳng được ai yêu thương cả, hoặc lại có bà mẹ kế không yêu con chồng như trường hợp của Cinderella, thì các em sẽ làm thế nào?

HS: Phải biết yêu chính mình ạ.

Thầy: Đúng lắm! Chẳng ai có thể ngăn cản các em yêu chính bản thân mình. Nếu cảm thấy người khác không yêu mình thì em càng phải tự yêu mình gấp bội. Nếu người khác không tạo cơ hội cho em thì em cần tự tạo ra thật nhiều cơ hội. Nếu biết thực sự yêu bản thân thì các em sẽ tự tìm được cho mình mọi thứ em muốn có. Ngoài Cinderella ra, chẳng ai có thể ngăn trở cô bé đi dự vũ hội của hoàng tử, chẳng ai có thể ngăn cản cô bé trở thành hoàng hậu, đúng không?

HS: Đúng ạ, đúng ạ!

Thầy: Bây giờ đến vấn đề cuối cùng. Câu chuyện này có chỗ nào chưa hợp lý không?

HS: (im lặng một lát) Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng như cũ, thế nhưng đôi giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.

Thầy: Trời ơi! Các em thật giỏi quá! Các em thấy chưa, ngay cả nhà văn vĩ đại (nhà văn Pháp Charles Perrault, tác giả truyện Cô Bé Lọ Lem - chú thích của người dịch) mà cũng có lúc sai sót đấy chứ. Cho nên sai chẳng có gì đáng sợ cả. Thầy có thể cam đoan là nếu sau này có ai trong số các em muốn trở thành nhà văn thì nhất định em đó sẽ có tác phẩm hay hơn tác giả của câu chuyện Cô bé Lọ lem! Các em có tin như thế không?

Tất cả học sinh hồ hởi vỗ tay reo hò.

Thời Hàn Băng (nhà báo Trung Quốc)

3.6.09

Đợi anh



Hoàng Kim

Thương mến tặng anh ...

Anh như cơn mưa ngọt đầu mùa
Mang đến niềm vui của ngày gieo hạt
Mai Việt nở bừng khoe sắc
Đằm thắm
Lời thì thầm của dòng sông

Anh và em
Như bức tranh tĩnh vật treo tường
Một đôi bình gốm qúy
Cặp bình giản dị
Sang trọng
Khiêm nhường
Tỏa sáng cho nhau.

Anh mang đến cho em
Giấc ngủ nhiệm màu
Xoá đi ưu tư phiền muộn
Anh vỗ về em
Bằng lời ru ngọt ngào cảm động
Tìm những nét cao quý nhất trong em
Mà trân trọng giãi bày

Anh thân yêu!
Nay anh đã xa rồi
Em vẫn ước mong anh
Đợi anh ngày trở lại ...

2.6.09

Nhớ em



Hoàng Kim

Đà lạt trăng khuya tròn như nỗi nhớ
Nơi ấy giờ này em đã ngủ chưa?
Nguyễn Du che vầng trăng để Kiều thăm Kim Trọng” *
Anh nhớ thương em biết mấy cho vừa!

Em hãy đến với anh, dù chỉ là một buổi
Để trăm năm đời, ta mãi nhớ về nhau.
Hãy đến chốn mây hồng nơi nguyện ước
Trời rất trong, trăng lồng lộng trên đầu.

* Câu thơ của thầy Lê Trí Viễn

Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng



Hoàng Kim

Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ
Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi
Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi
Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi

Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển
Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn
Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc
Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông

Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc
Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên
Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng
Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên

Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp
Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông
Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc
Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …

Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con


Nói với em

Hoàng Kim

Vụng về, bối rối trước mặt em
Muốn nói đôi điều bỗng hóa quên
Chớ thấy biển im chê biển cạn
E rằng đáy biển khó tìm kim

1.6.09

Qua sông Thương gửi về bến nhớ



Hoàng Kim

Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng

Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi

Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời

Hoàng Kim
(Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)
Hình ảnh sông Thương ở trên là của Nhật Minh tại diễn đàn Bắc Giang Online

Bài thơ cùng chủ đề "Qua sông Thương" (Sưu tầm)

QUA SÔNG THƯƠNG

Lưu Quang Vũ

*Sao tên sông lại là Thương
Để cho lòng anh nhớ?
Người xưa bảo đây đôi dòng lệ nhỏ
Những suối buồn gửi tới mênh mang
Đò về Nhã Nam
Đò qua Phủ Lạng
Mưa chiều nắng rạng
Đã bao năm?
Nỗi đau cũ thật không cùng
Sông cũng thành nước mắt

Hôm nay anh lại qua sông
Đò anh đi giữa những đóa sen hồng
Ong chấp chới bay, đây đương mùa dứa
Đò ngược xuôi chở trái chín vàng
Thơm ngát mật hương mùa hạ
Thôn xóm đôi bờ xanh biếc quá
Những đường xe chạy đỏ bụi bay
Những tiếng cười khúc khích sau vườn cây
Nước vỗ mạn thuyền dào dạt
Buồm trắng nắng căng phồng gió mát
Phủ Lạng thương sừng sững thân cầu
Giặc đánh hai lần ta lại sửa mau
Dòng nước đêm nay đựng trời sao
Hay ánh đèn điện sáng
Lấp lánh công trình phân đạm
Bóng ai kia trên giàn giáo tầng cao?
Thôi chẳng mất công tìm nhau
Hãy lắng nghe loa truyền tin vui quá nhỉ?
Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ
Nên đôi bờ nòng pháo hướng trời mây
Những cô lái đò súng khoác trên vai
Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui
Đò anh đi vẫn mùa sen thắm
Xuôi dòng về ngã ba sông
Bỗng ào ào nước mênh mông
Vui gì bằng những dòng sông gặp gỡ?
Mang vè bóng làng bóng người bóng lá
Những đò trái chín hẹn hò nhau …

Mùa đánh Mỹ qua sông xưa nước mắt
Mà vạt áo người nay chẳng ướt
Chỉ nghe lồng lộng tiếng ca vang
Nghe sông gọi người đi đánh giặc
Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng

6.1966

NHỚ SÔNG THƯƠNG

Nhật Minh (Diễn đàn Bắc Giang Online)

Tôi là một trong những người may mắn, may mắn bởi tuổi thơ tôi được tắm mát bên hai dòng sông quê hương: sông Cầu thơ mộng và sông Thương đôi dòng trong đục. Nếu như bao kỉ niệm khi nhỏ đã gắn với dòng sông Cầu cùng những chiều chăn trâu, cắt cỏ, những buổi mò hến, bơi sông..., và còn nữa những trò trẻ dại: ném tàu qua lại, thi bơi xa mùa nước lên.., thì dòng sông Thương mang cho tôi cảm giác thân thương, gần gũi suốt một thời "ngày hai buổi đến trường".
Sông Thương nước chảy đôi dòng.
Bên trong bên đục em trông bên nào?

Nếu không có những ngày sang sông học thêm, thì có lẽ hình ảnh con sông Thương cũng bình thường như bao con sông khác trong tiềm thức của tôi, như bao con sông tôi biết đến qua môn địa lý thầy dậy ở trường. Tuần ba buổi, sau khi tan lớp tôi lại lọc cọc con xe đạp cà tàng thẳng hướng Phà Bến Đám. Điểm dừng chân ăn trưa của tôi có khi là Neo, có khi là bất kỳ quán lá nào ven đường, hay cũng ngạy tại các quán chân dốc Phà. Chúng tôi lúc ba, lúc bốn...nhưng hễ xuống phà là lại trở thành những cậu nhóc lái phà thực thụ. Dần thành quen, có ngày khoái chí rủ nhau lái cho vài ba quệt phà ngang, mệt bở hơi tai. Mệt nhưng vui, cái vui mà chẳng bao giờ có lại được.

Nước dòng sông Thương đoạn Phà có khi trong khi đục. Mùa nước cạn, dòng sông hiền hòa, nước trong veo, mát lạnh. Mùa nước lên, tháng 6 tháng 7, nước đục như nước sông Hồng, chảy mạnh hơn, các phao cảnh báo cũng nhiều hơn. Nhiều lần cầm đòn kéo cáp, giữa dòng sông, cố tìm cho ra cái danh giới giữa hai dòng trong - đục mà sao chẳng thấy? Hỏi ra mới biết cái khúc có trong, có đục đó không phải ở đây, mà ở trên đoạn cao hơn nửa, trên tít Thị xã xa xa cơ. Một đoạn làm nên đặc tính, nét duyên dáng của cả 1 dòng sông, một dòng sông "nước chảy đôi dòng".

Sông Hương xứ Huế mềm mại, thiết tha như chính dánh hình người thiếu nữ Huế, trong veo từ ngay cả giọng nói, lời chào. Sông Đuống trường kỳ, hình tượng qua những câu thơ đứt ruột: "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ"...Mỗi con sông gắn với mỗi vùng đất, đều có nét riêng. Tên mỗi con sông cũng ngân lên chính cái hồn của nó vậy. Sông Thương.....nghe vừa mềm mại, trìu mến, mộng mơ, nhưng cũng rất cá tính.

Sao tên sông lại là Thương
Để cho lòng anh nhớ?
(Lưu Quang Vũ)

Sông Thương đã đi vào thơ ca cũng bằng chính những nét độc đáo:

...Một dòng sông dôi dòng thơ mộng:

Có ai đã từng nghe Chiều sông Thương mà không cảm thấy như được thương, được nhớ? Tiếng hát cứ ngân vang như dòng sông hiền hòa, êm dịu nâng niu hồn người nghe:

Đi suốt cả chiều quê
vẫn chưa về lối cũ
Dùng dằng câu quan họ
nở tím bờ sông Thương
Nước vẫn chảy đôi dòng,
chiều uốn cong lưỡi hái
Những gì sông muốn nói
cánh buồm giờ hát lên

(Chiều Sông Thương - An Thuyên, thơ Hữu Thỉnh)

Đạn bom chiến tranh không thể làm phai đi chất thơ mộng, mĩ miều của đôi dòng nặng trĩu phù sa:

Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng

(Lưu Quang Vũ)

Sông Thương một dải mờ xanh,
Yêu thương anh xẻ ngọt lành anh trao.

(Ngô Trọng Đình)

Sông Thương không cuồn cuộn, oai hùng như sông Đà, không "mặt im lìm, đáy vùi sâu xác giặc" như sông Cầu, sông Mã..., nó mềm mại, thiết tha như mái tóc dài thiếu nữ:
Mai đành xa sông Thương tóc dài
Vạn Kiếp tình yêu anh gửi lại

Xuân ơi xuân, lẽ nào im lặng mãi
Hạ chưa về... nhưng nắng đã Côn Sơn

(Hoàng Nhuận Cầm)

...Một dòng sông anh hùng:

Cùng con người, sông cũng thao thức cùng chiến tuyến chống quần thù. Sông vẫn thở và người vẫn hát, hát trong lửa đạn chiến tranh:

Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ
Nên đôi bờ nòng pháo hướng trời mây
Những cô lái đò súng khoác trên vai
Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui
...........................
Nghe sông gọi người đi đánh giặc
Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng

(Lưu Quang Vũ)

"Quê hương ai cũng có một dòng sông êm đềm...": Lời bài hát như đưa chúng ta về với quá khứ, về với tuổi thơ, về với quê hương, nơi có dòng sông yêu dấu. Thời gian có thể làm thay đổi con sông đó, nhưng hình ảnh về một con sông tuổi thơ đã đi vào thi ca, đi vào tiềm thức thì mãi rõ nét như chính tên gọi của nó vậy. Có ai quên được quê hương? Nhớ về quê hương có ai không nhớ về những dòng sông êm đềm, thơ mộng? Sông Thương vẫn cứ mãi êm đềm, thơ mộng như chính tự nó, là cội nguồn cảm hứng sáng tác vô bờ bến.

...Nhớ con sông Thương đôi dòng trong đục,
Như dải lụa đào hai sắc thắm em mang,
Nhớ ngọn Non Voi, nhớ dòng Như Nguyệt,
Nhớ những buổi chiều cắt cỏ, chăn trâu...

Ước cho dòng sông Thương mãi cứ hiền hòa, thơ mộng.
Con Phà không còn nữa, một con cầu mới ôm hai bờ khoảng cách, nhưng những kỷ niệm với sông Thương thì không bao giờ hết.

SÔNG THƯƠNG
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tọa độ: 21°7′26″N 106°17′52″E Sông Thương (Sông Nhật Đức)
Tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương
Các chi lưu
- tả ngạn sông Hóa
- hữu ngạn sông Bắc Cầu, sông Trung, sông Sỏi
Nguồn
- Vị trí dãy núi Na Pa Phước, làng Man, Vân Thủy, Chi Lăng, Lạng Sơn
- Cao độ 600 m (1.969 ft)
Cửa sông Ngã ba Lác
- vị trí Lục Đầu Giang, Yên Dũng, Bắc Giang, Việt Nam
- tọa độ 21°7′26″N 106°17′52″E
Chiều dài 157 km (98 mi) Lưu vực 6.640 Km² (2.564 mi²)
Lưu lượng - trung bình 46,5 m³/s (1.642 ft³/s)

Sông Thương (hay sông Nhật Đức) là một sông lớn ở địa phận các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương và là một chi lưu của sông Thái Bình.

Sông Thương bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, làng Man, xã Vân Thuỷ, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang. Sông chảy qua thành phố Bắc Giang (tên cũ là Phủ Lạng Thương) và điểm cuối là thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tại đây nó hợp lưu với sông Lục Nam (ngã ba Nhãn) và sông Cầu (ngã ba Lác), rồi tạo thành sông Thái Bình tại chính ngã ba Lác.

Trên địa phận tỉnh Bắc Giang, sông Thương chảy qua các huyện Lạng Giang, Yên Thế, Tân Yên, Thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng.

Sông Thương có một chi lưu lớn là sông Sỏi chảy từ huyện Yên Thế (Bắc Giang). Chúng hợp lưu tại nơi tiếp giáp của ba huyện: Yên Thế, Tân Yên và Lạng Giang. Đến gần thành phố Bắc Giang, có thêm một dòng sông đào đổ nước vào sông Thương, nước sông Thương vốn trong xanh nay có dòng nước đục thêm vào thành ra sông có hai dòng chảy song song, một bên trong, một bên đục. Hiện tượng này có thể nhìn thấy được tới thành phố Bắc Giang.

Sông Thương có chiều dài 157 km, diện tích lưu vực: 6.640 km². Giá trị vận tải được trên 64 km, từ Phả Lại, tỉnh Hải Dương đến thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Các loại tàu thuyền có tải trọng 200-250 tấn, xà lan 250-300 tấn tham gia vận tải đường sông từ Phả Lại-Bến Tuần (huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang dài 49 km), từ Bến Tuần - Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang các loại thuyền nhỏ có tải trọng từ 50-70 tấn tham gia vận tải được trong 2 mùa (đoạn Bến Tuần - Bố Hạ dòng sông hẹp có nhiều bãi bồi).

Thời phong kiến khi quan, quân lên trấn ải biên thùy Lạng Sơn thì gia quyến của họ được phép tiễn đưa đến con sông này, người đi xa, kẻ ở lại chia tay nhau ở đây thật là thương cảm lên từ đó người con sông nay được gọi là Sông Thương.

Sông Thương trong văn học và âm nhạc

Sông Thương được nhắc đến nhiều trong văn học và các ca khúc âm nhạc. Như trong ca khúc tiền chiến "Con thuyền không bến" của Đặng Thế Phong :
...Lướt theo chiều gió, một con thuyền,
Theo trăng trong, trôi trên sông Thương,
nước chảy đôi dòng, biết đâu bờ bến
Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên con sông Thương, nào ai biết nông sâu?
Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng.
Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng...

Hay trong "Trường ca Con đường cái quan" của Phạm Duy :
Sông Thương ơi nước chẩy đôi ba dòng
Anh về Hà Nội một lòng, lòng yêu em
Sông Thương ơi nước đục người đen
Anh về thành phố không quên cô mình...

Lấy ý từ câu ca dao :
Sông Thương nước chảy đôi dòng.
Bên trong bên đục em trông bên nào?

Theo sự nhận xét của nhà văn Toan Ánh thì chuyện "Sông Thương nước chảy đôi dòng" là có thật! Đó chẳng qua là hiện tượng nhập giang của con ngòi ( Đa Mai ) chảy từ cánh đồng chiêm làng Đa Mai ( Mỹ Độ ) nối kết với dòng sông Thương ( nước của cánh đồng chiêm thì đục đầy phù sa, gặp nước sông Thương trong xanh, hai dòng nước không hòa lẫn với nhau ở một đoạn khá dài ( khoảng 100 thước). Hiện tượng này , ngày nay không còn nữa và sự phân ly của người xưa đã hết, nhưng con sông Thương đã chảy vào lòng người những tâm tình tràn ngập phù sa thương nhớ…[1]

Tham khảo
Sông Thương (sông Nhật Đức).
Khái quát địa lí, lịch sử, văn hóa Bắc Giang

Liên kết
Nhớ sông Thương (Bài của Nhật Minh cùng trang này)

23.5.09

Thơ Trần Tử Ngang nửa đời đọc lại


THUNG DUNG. “ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”."Bài ca lên đài U Châu" thơ Trần Tử Ngang, Tương Như dịch). Tôi biết kiệt tác này lúc 17 tuổi, khi may mắn được nghe bác Xuân Thủy bình bài thơ trên tại đỉnh đèo Ngang (Mời đọc thêm: Lên đỉnh đèo Ngang ngắm biển; Thăm đèo Ngang gặp bác Xuân Thủy; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối; Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ). Nơi cổng Trời "Hoành Sơn cổ lũy" đèo Ngang gánh hai đầu đất nước, ngoài câu chuyện về thơ Bác Hồ, tôi được nghe về thơ Mãn Giác thiền sư và Trần Tử Ngang. Lạ thay, 38 năm sau, thơ Trần Tử Ngang cũng lại được bạn Cao Nguyên nhắc đến, gợi cho tôi viết trang văn “Thơ Trần Tử Ngang nửa đời đọc lại” Hoàng Kim.

TRẦN TỬ NGANG CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Trần Tử Ngang(661 - 702) là nhà thơ có địa vị trọng yếu trên thi đàn thời Sơ Đường. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với thi ca thời Thịnh Ðường cũng như phong trào vận động cổ văn thời Trung Ðường. Ông có tên tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên). Ông đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan trong triều Võ Tắc Thiên với chức Lan đài chính tự sau đó đổi làm chức Tả thập di.



Phong cách thơ của ông xuất chúng, ngụ ý sâu xa. Trần Tử Ngang thời niên thiếu gia đình tương đối giàu có, coi nhẹ tiền bạc, khẳng khái. Sau khi trưởng thành, ông quyết tâm học, giỏi viết văn; đồng thời quan tâm quốc sự, quyết lập công tích về chính trị. Ông thường dâng sớ điều trần về đại kế quốc gia nhưng không được Vũ hậu nghe theo. Vũ hậu là người mưu lược, cương nghị, quyền biến, tâm cơ. Bà không từ một thủ đoạn nào để mua chuộc, lôi kéo hoặc thẳng tay triệt hạ những người tài giỏi thuộc vây cánh của đối phương nhằm thâu tóm quyền lực, Dưới thời của bà những người tài không thuộc bè phái thường bị nguy hiểm.



Trần Tử Ngang khẳng khái, không sợ bức hại, nhiều lần trình tấu, khuyên can. Võ Tắc Thiên lập kế hoạch mở con đường Thục Sơn Kinh Nha Châu công kích dân tộc Sinh Khương, ông đã trình tấu phản đối, chủ trương an cư lạc nghiệp. Nhân việc Vũ Du Nghi phụng mệnh đi đánh Khiết Ðan, ông xin ra làm tham mưu. Vũ Du Nghi không nghe kế ông nên bị bại trận. Ông từ quan trở về quê cũ nhưng vẫn bị bọn tiểu nhân vu tội bắt giam và chết trong ngục.



GIAI THOẠI ĐẬP ĐÀN CỦA TRẦN TỬ NGANG

Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn. Lần đầu tiên đến Trường An, ông không được một ai biết đến. Ông liền bỏ ra một ngàn quan tiền, mua một cây đàn hồ cầm rất quí, rồi mời mọi người đến dự tiệc, nghe nhạc.

Khi mọi người tề tựu đông đủ và háo hức chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến. Nhạc này là của kẻ thơ hèn đâu đáng lưu tâm?



Nói đoạn ông đập tan cây đàn trước sự sững sờ, kinh ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra tặng cho cử tọa. Trong một ngày danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi người ai cũng biết tiếng.

Năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang với văn tài xuất chúng đã thi đậu tiến sĩ và được Võ Hậu nể phục tài năng. Luận về thơ, ông nói: "Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời".

Quả nhiên, những tuyệt phẩm thơ của Trần Tử Ngang mười ba thế kỷ sau, đến nay vẫn còn tốn hao giấy mực của nhiều người. Trung Quốc hiện có nhiều địa chỉ web về Trần Tử Ngang, bạn có thể tìm trên Google tại từ khóa 陳子昂 (Trần Tử Ngang).

BÀI CA LÊN ĐÀI U CHÂU CỦA TRẦN TỬ NGANG

“ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”. Tương Như dịch




Đăng U Châu Đài Ca

Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ.

Trần Tử Ngang
* U châu : nay là Bắc Kinh



Dịch nghĩa :

Bài ca lên đài U Châu
Trông lại trước không thấy người xưa ; nhìn về sau, không thấy kẽ mới đến. Nghĩ nổi trời đất lâu dài man mác, một mình bùi ngùi rơi lệ.

Bài ca lên đài U Châu

Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.

Trần Trọng San dịch



Trước chẳng thấy người xưa,
Sau chẳng thấy ai cả.
Ngẫm trời đất thăm thẳm sao!
Riêng xót xa lệ lã chã.

Trần Trọng Kim dịch



Bài ca lên đài U Châu

Trước không gặp được người xưa
Sau không gặp được kẻ chưa ra đời
Mênh mang ngẫm lẽ đất trời
Một mình để giọt lệ rơi bùi ngùi.

Cao Nguyên dịch

SUY NGẪM THƠ NGOÀI NGHÌN NĂM TRẦN TỬ NGANG

Lên núi cao ngắm biển trời để thấu hiểu sự mênh mang vô cùng của trời đất, lẽ huyền vi của tạo hóa, sự thịnh suy được mất của các triều đại, sự biến dịch của nhân quả, sự ngắn ngủi hữu hạn của kiếp người. Điều đó đã được nhiều người trãi nghiệm…

Chúng ta đọc thêm hai bài thơ nữa của Trần Tử Ngang để hiểu rõ hơn về ông:




Kế khâu lãm cổ

Nam đăng Kệ Thạch quán,
Dao vọng Hoàng Kim đài.
Khâu lăng tận kiều mộc
Chiêu Vương an tại tai
Bá đồ trướng dĩ hĩ,
Khu mã phục quy lai.

Gò Kế xem cảnh năm xưa

Trèo lên Kệ Thạch quán nam,
Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài.
Cây cao phủ hết quanh đồi.
Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?
Cơ đồ bá chủ còn đâu!
Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.

Tản Đà dịch


Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm bất tương thức
Quy ngọa cố sơn thu
(Trần Tử Ngang)

Ba năm làm được hai câu
Ngâm lên một bận dòng châu tuôn trào
Tri âm chẳng hiểu lòng nhau
Xin về núi cũ nằm khào nhớ thu
(Vũ Đức Sao Biển dịch)

Hai câu thơ ba năm làm mới được
Ngâm lên rồi bất giác lệ tuôn rơi
Hỡi tri âm, lòng nhau sao không hiểu
Chốn non xưa về ngắm mây trời
(gamai dịch lại)



Tôi duyên may năm 17 tuổi được Lên đỉnh đèo Ngang ngắm biển; Thăm đèo Ngang gặp bác Xuân Thủy; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối; sớm tiếp xúc với Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ), từng trầm tư cảm khái về "Bài ca lên đài U Châu" của Trần Tử Ngang và bài thơ thần của Hồ Chí Minh viết lúc 5 tuổi (mà sau này linh ứng "vũng Chùa, biển Đông, đường lưỡi bò"):"Biển là ao lớn/ Thuyền là con bò/ Bò ăn gió no/ Lội trên mặt nước/ Em nhìn thấy trước/ Anh trông thấy sau/ Ta lớn mau mau/ Vượt qua ao lớn." Chợt dưng, tôi thấu hiểu "Chốn non xưa về ngắm mây trời",sự ứng xử thung dung, sâu sắc của Đại tướng và trí tuệ bậc Thầy.

Trong văn chương Việt, khi đọc bài kệ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, bài “Mài kiếm dưới trăng” của tráng sĩ Đặng Dung và đọc thơ Nguyễn Du, ta đều cảm nhận thấy sự ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử … và đều có nỗi buồn man mác. Đấy có thể là điều để hiểu thơ Trần Tử Ngang chăng?

"Bài ca lên đài U Châu" của Trần Tử Ngang là tuyệt phẩm thơ ngoài ngàn năm.


Những hình Trần Tử Ngang và thư pháp trong bài này dẫn theo www.hudong.com

Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, CassavaViet, foodcrops.vn

21.5.09

Thắp đèn lên đi em



Thắp đèn lên đi em! Hoàng Kim. Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân / Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí/ Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ/ Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin. Trang thơ cũ, nay đọc lại vẫn nóng hổi ...Cuộc sống đã biết bao đổi thay nhưng những vùng quê nghèo, những cuộc đời bất hạnh, những đói nghèo, cơ cực vẫn còn đó.... (phóng sự ảnh: sống dưới ánh đèn dầu trên vietbao.vn) Hãy cố gắng lên các em, những học sinh nghèo hiếu học!


Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
Dù sớm chiều em đã học hăng say
Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
Tấm áo sờn không đủ ấm người em
Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
Qua khổ cực càng yêu người lao động
Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời láp lánh một niềm tin.

Thắp đèn lên đi em!

1971

17.4.09

Trò chuyện với con







Nuôi con đâu kể tháng ngày
Trông cây thầm ước đến ngày con khôn
Tay nâng quả chín thơm ngon
Bâng khuâng lòng nhớ thương con bội phần

Hoàng Kim

An vui học cụ Trạng Trình


AN VUI HỌC CỤ TRẠNG TRÌNH

Hoàng Kim
tặng anh Hoa Huyền

Tui chỉ mới là "thuộc sách" thôi.
"Giảng sách" xem ra chửa tới nơi
Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
Nói nhiều làm ít sợ chê cười.

"Cổ điển" honda không biết chạy
"Canh tân" blog viết đôi bài
Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.

Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm
Kính vợ không quên việc trả bài
"An nhàn vô sự là tiên" đấy
Thung dung đèn sách, thảnh thơi chơi

HK

(*) Thơ vui đùa lại bài viết của anh Hoa Huyền

639.

CHÂN DUNG TIẾN SĨ HOÀNG KIM (*)
Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh

Cả đời mê tít sắn ngô khoai
Tiến sĩ nhà nông khá đẹp trai
Giọng nói tươi nguyên màu trí tuệ
Nụ cười say đẫm chất duyên hài
Quý bè yêu bạn đâu ra đó
(Kính vợ thương con đúng bản bài)
Người tốt cổ xưa còn sót lại (**)
Tấm gương trong sáng chẳng hề sai.

Hoahuyen
05.4.2009

(*)(**) Một người bạn theo nhận xét của Nhà văn HĐQ
là "Người tốt một cách cổ điển còn sót lại"
- Nhiệt tình trách nhiệm với bạn bè
- Có kiến thức sâu, rộng về Nông Lâm ( ngô khoai sắn... )
- Hào hoa phong nhã, chuẩn mực trong giao tiếp ứng xử...
- Chị em mê tít thò lò, nhưng lại rất chung thủy yêu vợ thương con...




Dịch giả Bích Nga - Hoahuyen - Nhạc sĩ Trung Kim - GSTS Hoàng Kim
( Một chuyến du xuân kỷ niệm mùng 4 tết năm Kỷ Sửu - Thăm Đức Linh)

Tháng Ba nhớ bạn



Mận chín trĩu cành chờ tay hái
Tháng ba lộc muộn, mận hồi xuân
Đất duyên, trời cảm, cây thêm quả
Ước bạn về thăm ngọt trái cầm

Hoàng Kim

Lời của Thầy theo mãi bước em đi




Đúc gan sắt để dời non lấp bể. Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ“. Trước tượng Phan Bội Châu, nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh và bài thơ “Em ơi em can đảm bước chân lên“.

Hoàng Kim

Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.

Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.

Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.

Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?

Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay

Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.

Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có
Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học, chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.
Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?

“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”.

Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.

Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!
Lời của Thầy theo mãi bước em đi.

Hoàng Kim học để làm ở Ấn Độ

Hoàng Kim
Rút trong tập THƠ CHO CON
(1)  bài thơ của thầy Nguyễn Khoa Tịnh
EM ƠI EM CAN ĐẢM BƯỚC CHÂN LÊN (ở đây)

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính

Hoàng KimNgọc Phương NamThung dungDạy và họcCNM365Tình yêu cuộc sốngCây Lương thựcDạy và HọcKim on LinkedInKimYouTubeKim on Facebook

7.3.09

Em ơi em, can đảm bước chân lên

Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”


Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”


Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng
Hiên ngang khí phách:

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sang mát thu không
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”


Tôi biết chí em khi "Qua đèo Ngang
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:

“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa

Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.

Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”


Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

"Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”


Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!

Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

1970

Thầy Nguyễn Khoa Tịnh mất ngày 20 (âm lịch) tháng 10 năm 1993.
Một số hình ảnh của gia đình Thầy ngày 23(dl) tháng 2 năm 2009



QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI



Hoàng Kim


Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà không thấy sách báo nào nhắc đến hơn ba mươi năm qua.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

Tôi đã giới thiệu những bài thơ Qua đèo Ngang xướng họa này tại trang DAYVAHOC (http://blogtiengviet.net/DAYVAHOC), THƠ CHO CON (http://my.opera.com/hoangkim1) và thầy tôi Nguyễn Khoa Tịnh đã có bài thơ cảm động "Em ơi em can đảm bước chân lên!" viết từ thuở ấy! Tôi đã đăng ở trang này (http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam) để minh chứng sự thật đó.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ "Nguyên tiêu" nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ "Trung Nam Hải" từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ trên của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới có khác một chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ "Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân" và không đơn giản dịch là "Tìm bạn không gặp". Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam "chiến đấu trong vòng vây"; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.