THUNG DUNG. Đọc Nguyên Ngọc: Đò dọc Trường Giang, tôi không ngủ được, phải thắp đèn trong đêm vắng để đọc lại và thao thức viết bài này. Nếu như Tháng Ninh Nông đã vĩnh viễn lưu danh tiếng của ông vào núi rừng Tây Nguyên và Mường Hon thì Đò dọc Trường Giang đã neo đậu tên ông vào sâu thẳm trong lòng tôi với những ngọn núi và dòng sông xứ Quảng.
Tôi bần thần đọc kỹ lại ba trích đoạn và lời kết của Nguyên Ngọc:
"Đò ngang từng đi vào ca dao. Đò dọc chẳng kém. Hồi nhỏ tôi thường nghe bà ngoại, rồi mẹ tôi hát: “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc mẹ liều con hư…” Tôi nhớ hình như bà ngoại tôi hát có mỗi một lần, rồi thì chỉ mẹ hát. Trong khi ngoại ngồi lặng, ngẩn ngơ nhìn mãi ra xa, nơi dòng Trường Giang ngày đêm lặng lẽ trôi, khuất sau những bờ tre ngày xưa dày và xanh um, tít tắp."
" Biết bao nhiêu cuộc tình đã được kết trong những đêm đò dọc ấy, có thể đến bến sẽ tan, một đêm sông nước phù du, mà cũng có thể sẽ đậu nên duyên số trọn đời..." "Mẹ tôi đã được sinh ra từ cuộc tình duyên sông nước Trường Giang ấy, tôi vẫn ngờ vậy. Khi tôi đến tuổi hiểu biết đôi chút thì ông ngoại mất đã lâu, tôi chỉ biết bà ngoại, bà thương tôi nhất trong các cháu, đêm bà ôm ru tôi ngủ bằng những câu ca đằm thắm ngân nga, hẳn những câu xưa bà từng hát đối đáp với ông tôi…"
"Vâng, với tôi Trường Giang, như thế đó, là con sông sinh thành. “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc...” Cám ơn những người mẹ đã biết, đã dám “liều”, để cho những đứa con, rồi những đứa cháu, chắt hạnh phúc được ra đời…".
Trường Giang một sông hai cửa: nối cửa Đại và cửa Chu Lai. Đò dọc Trường Giang là dấu ấn văn hóa xứ Quảng.
Nhà văn Nguyên Ngọc năm nay 82 tuổi nhưng văn chương thật trẻ trung, tươi tắn, hiền triết, đậm nét chân nhân, như sự ngợi ca của thầy Chu Hảo: Nguyên Ngọc vẫn trên đường xa...
Đúng là "gừng già gừng rụi gừng cay!". Đò dọc Trường Giang lắng đọng trong lòng tôi. Tôi cũng có một dòng sông quê hương để nhớ. Cũng có những chuyến đò dọc của người cha đi từ bến Son để suốt đời dòng nước Linh Giang thao thiết chảy.

Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông
Nhà mình gần ngã ba sông. Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình. Linh Giang sông núi hữu tình. Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con. "Chèo thuyền cho khuất bến Son. Để con khỏi chộ nước non thêm buồn". Câu ru quặn thắt đời con. Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ. Ra đi từ bấy đến chừ. Lặn trong sương khói bến đò sông quê. Ngày xuân giữ vẹn lời thề. Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
Hoàng Kim
Đò dọc Trường Giang
Nguyên Ngọc
SGTT.VN - Đời người, hoá ra là ai cũng có một con sông, hoặc gắn với nơi mình sinh ra, hoặc do duyên số thế nào đó mà mình gặp về sau trên đường đời, rồi thân thiết.
Tôi cũng có con sông của mình, Trường Giang. Dân Quảng
Nam chúng tôi có thói ưa phóng đại, cái gì cũng nói vống lên cho thật
to, tiếng Quảng gọi là “nói dốc”. Con sông ngắn củn, chỉ trên dưới năm
mươi cây số, mà dám xưng Trường Giang, nghe như Đại Trường Giang bên
Tàu! Năm mươi cây và cạn xợt. Nhưng lại vô cùng độc đáo. Mọi con sông
trên trái đất ắt đều phải từ trên núi đổ xuống. Riêng nó, Trường Giang
của chúng tôi, chẳng cần núi non gì hết, nó chảy từ một cửa biển này
sang một cửa biển khác, nối cửa Đại Hội An với cửa Lỡ và cửa Đại Áng,
tức cửa Chu Lai bây giờ, nơi Lê Thánh Tông từng giấu hàng vạn chiến
thuyền chuẩn bị đi đánh Đồ Bàn của Chămpa... Sông chảy ngang, song song
với bờ biển, nên rất êm, không hề biết đến thác ghềnh. Và vì nối liền
hai cửa biển nên nó hưởng chế độ thuỷ triều từ cả hai phía, khi triều
xuống thì phẳng lì, triều lên nước từ hai cửa đổ dồn ngược, vấp vào
nhau, tạo thành một cái ngấn nước nhọn rất lạ, cao đến hơn gang tay,
giăng từ bờ bên này sang bờ bên kia, ở quãng trước một cái chợ đông đúc
gọi là chợ Tây Giang. Hai bên sông ngày trước nhộn nhịp hàng loạt chợ
trù phú. Quế Trà Mi lừng danh, và cả lâm sản quý của Tây Nguyên mà
Christopho Borri khi tới Quảng Nam mấy trăm năm trước từng kinh ngạc,
đều được chở từ núi xuống Tam Kỳ, rồi theo Trường Giang, con quốc lộ
nước tuyệt vời ấy mà về cảng thị Hội An.
Còn với tôi, gần gũi hơn, đấy là con sông sinh thành. Chính con sông ấy, Trường Giang, đã sinh ra tôi. Sinh ra, thật vậy, tuyệt đối nghĩa đen, không hề bóng gió. Sự thể là thế này…
Quê mẹ tôi, chính xác hơn là quê bà ngoại tôi, ở chợ
Hưng Mỹ, một chợ nổi tiếng ven sông Trường Giang. (Tôi nói “ven sông”
chứ không nói tả ngạn hay hữu ngạn, bởi vì một con sông không đổ từ trên
núi xuống, mà chảy ngang từ một cửa biển này sang một cửa biển khác,
thì hai bờ của nó bình đẳng, biết bên nào là phải bên nào là trái?)
Hưng Mỹ cách Hội An bao nhiêu nhỉ? Không gian được đo
bằng thời gian: cách một đêm đò. Tôi ở Hội An, hè về quê ngoại Hưng Mỹ,
sẩm tối xuống đò ở bên Triều Châu (tên xưa của bến Bạch Đằng), ngủ một
đêm, sáng tới chợ Hưng Mỹ. Hết hè, từ Hưng Mỹ quay ra Hội An, tối xuống
đò ở bến chợ, ngủ một đêm, sáng mai thức dậy, thấy phố Hội. Những con đò
như vậy gọi là đò dọc. Đò ngang từng đi vào ca dao. Đò dọc chẳng kém.
Hồi nhỏ tôi thường nghe bà ngoại, rồi mẹ tôi hát: “Trồng trầu thả lộn
dây tiêu – Con đi đò dọc mẹ liều con hư…” Tôi nhớ hình như bà ngoại tôi
hát có mỗi một lần, rồi thì chỉ mẹ hát. Trong khi ngoại ngồi lặng, ngẩn
ngơ nhìn mãi ra xa, nơi dòng Trường Giang ngày đêm lặng lẽ trôi, khuất
sau những bờ tre ngày xưa dày và xanh um, tít tắp.
Đò dọc khác đò ngang. Đò ngang chỉ đưa người sang sông.
“Đưa người ta không đưa sang sông…” bởi đò ngang sang sông là hết. Gặp
gỡ thoáng chốc, rồi đi biệt. Đò dọc khác. Ấy là những con đò lớn hơn đôi
chút, có mui bằng tre, chèo tay, lờ đờ trôi, ở cái thời người ta còn
thừa mứa thời gian, sống rất chậm, thư thả, thong dong, không bị cuộc
sống thúc bách hối hả trăm sự nhiêu khê như ngày nay, mà nói cho cùng
thì do tự mình gây ra cho mình cả thôi.
Đêm đò, trăng sáng hay trăng lu, người chèo đò thong thả vừa chèo vừa hát, ghẹo các cô gái trên các bến hai bên bờ, các cô chẳng vừa, thường cất lời hát đối đáp, suốt đêm trên con sông dài ngân nga một cuộc biểu diễn kỳ lạ. Cũng có thể đã nên những mối tình nào đó, thoáng qua, bởi đêm nào họ cũng hát, cũng đối đáp, dào dạt, say mê, mà có bao giờ họ gặp nhau đâu, người dưới nước kẻ trên bờ, người trên thuyền trôi nổi, người ở lại ngóng theo, cũng chẳng hề nhìn rõ mặt nhau dù trăng sáng hay lu, dưới nước hay trên bờ đều mờ ảo, chỉ nghe và quen, say tiếng hát của nhau, có thể đêm nào cũng nghe, có thể đêm nào cũng chờ, người trên bến chờ chiếc đò “của mình” đi qua để nghe một câu hát chào, hát ghẹo, để hát với theo một câu đối đáp, chưa hết câu hát thì đò đã đi mất. Thật lạ, đêm nào cũng “gặp”, cũng nghe, cũng hướng, cũng tưởng về nhau, mà đêm nào cũng dở dang, mãi mãi dở dang…
Còn trên đò, trong khoang, con trai con gái nằm lẫn với
nhau, bóng đêm và sông nước khêu gợi, và những câu hát kia nữa, thúc
giục, dụ dỗ. Đi đò là thiên hạ ngẫu nhiên, nửa lạ nửa quen, là tình cờ
một đêm, là duyên nợ một lần, như thật như hư, gặp đó rồi xa đó, chẳng
cần mấy giữ gìn, có thể buông những câu hát rất táo bạo, ỡm ờ, dè dặt
hay liều lĩnh, nhẹ nhàng hay sấn sổ, tục thanh, thanh tục, gợi tình…
Biết bao nhiêu cuộc tình đã được kết trong những đêm đò dọc ấy, có thể
đến bến sẽ tan, một đêm sông nước phù du, mà cũng có thể sẽ đậu nên
duyên số trọn đời… Con gái đi đò dọc “mẹ liều con hư” là vậy.
Mà chắc gì đã là hư. Tôi cứ nghĩ mãi không biết có phải ông ngoại tôi đã gặp bà ngoại tôi và phải lòng nhau trên một chuyến đò dọc Hưng Mỹ – Hội An hay Hội An – Hưng Mỹ? Ồng ngoại tôi người Hà Tĩnh, quê làng Uy Viễn, Nghi Xuân, là cháu đích tôn gọi cụ Nguyễn Công Trứ bằng ông nội. Ông ngoại tôi, hẳn là một ông đồ Nghệ Tĩnh, hơn một thế kỷ trước khăn gói vào Nam dạy học và, tôi đoán thế, chắc đã gặp một cô gái làng Hưng Mỹ trên một chuyến đò dọc Trường Giang xuôi về phố Hội. Gen của cụ Thượng Trứ mà, 73 tuổi còn bỡn con gái người ta “ngũ thập niên tiền nhị thập tam”, và lên chùa còn “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”, lại trêu cả Phật “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Ôi ông đồ Nghệ ngật ngưỡng là cụ ngoại tôi hơn thế kỷ trước. Mẹ tôi đã được sinh ra từ cuộc tình duyên sông nước Trường Giang ấy, tôi vẫn ngờ vậy. Khi tôi đến tuổi hiểu biết đôi chút thì ông ngoại mất đã lâu, tôi chỉ biết bà ngoại, bà thương tôi nhất trong các cháu, đêm bà ôm ru tôi ngủ bằng những câu ca đằm thắm ngân nga, hẳn những câu xưa bà từng hát đối đáp với ông tôi…
Vâng, với tôi Trường Giang, như thế đó, là con sông sinh thành. “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc...” Cám ơn những người mẹ đã biết, đã dám “liều”, để cho những đứa con, rồi những đứa cháu, chắt hạnh phúc được ra đời…
Nguyên NgọcNguồn: SGTT.VN
(*) Nhà văn Nguyên Ngọc tên
thật là Nguyễn Văn Báu, bí danh khác Nguyễn Trung Thành, sinh ngày 5
tháng 9 năm 1932 tại Đà Nẵng, quê huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là
nhà văn, nhà văn hóa - giáo dục dấn thân. Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại biểu Quốc hội Khóa 4. Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tổng Biên tập Báo Văn Nghệ. Trưởng ban sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam. Chủ tịch HĐQT Đại học Phan Châu Trinh. Chủ tịch HĐKH Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, KimTwitter, KimFaceBook, CassavaViet, foodcrops.vn