10.2.14

Đọc Nguyên Ngọc: Đò dọc Trường Giang


THUNG DUNG. Đọc Nguyên Ngọc: Đò dọc Trường Giang, tôi không ngủ được, phải thắp đèn trong đêm vắng để đọc lại và thao thức viết bài này. Nếu như Tháng Ninh Nông đã vĩnh viễn lưu danh tiếng của ông vào núi rừng Tây Nguyên và Mường Hon thì  Đò dọc Trường Giang đã neo đậu tên ông vào sâu thẳm trong lòng tôi với những ngọn núi và dòng sông xứ Quảng. 

Tôi bần thần đọc kỹ lại ba trích đoạn và lời kết của Nguyên Ngọc: 

"Đò ngang từng đi vào ca dao. Đò dọc chẳng kém. Hồi nhỏ tôi thường nghe bà ngoại, rồi mẹ tôi hát: “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc mẹ liều con hư…” Tôi nhớ hình như bà ngoại tôi hát có mỗi một lần, rồi thì chỉ mẹ hát. Trong khi ngoại ngồi lặng, ngẩn ngơ nhìn mãi ra xa, nơi dòng Trường Giang ngày đêm lặng lẽ trôi, khuất sau những bờ tre ngày xưa dày và xanh um, tít tắp." 

" Biết bao nhiêu cuộc tình đã được kết trong những đêm đò dọc ấy, có thể đến bến sẽ tan, một đêm sông nước phù du, mà cũng có thể sẽ đậu nên duyên số trọn đời..." "Mẹ tôi đã được sinh ra từ cuộc tình duyên sông nước Trường Giang ấy, tôi vẫn ngờ vậy. Khi tôi đến tuổi hiểu biết đôi chút thì ông ngoại mất đã lâu, tôi chỉ biết bà ngoại, bà thương tôi nhất trong các cháu, đêm bà ôm ru tôi ngủ bằng những câu ca đằm thắm ngân nga, hẳn những câu xưa bà từng hát đối đáp với ông tôi…" 

"Vâng, với tôi Trường Giang, như thế đó, là con sông sinh thành. “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc...” Cám ơn những người mẹ đã biết, đã dám “liều”, để cho những đứa con, rồi những đứa cháu, chắt hạnh phúc được ra đời…". 

Trường Giang một sông hai cửa: nối cửa Đại và cửa Chu Lai.  Đò dọc Trường Giang là dấu ấn văn hóa xứ Quảng. 

Nhà văn Nguyên Ngọc năm nay 82 tuổi nhưng văn chương thật trẻ trung, tươi tắn, hiền triết, đậm nét chân nhân, như sự ngợi ca của thầy Chu Hảo: Nguyên Ngọc vẫn trên đường xa...

Đúng là "gừng già gừng rụi gừng cay!". Đò dọc Trường Giang lắng đọng trong lòng tôi.  Tôi cũng có một dòng sông quê hương để nhớ. Cũng có những chuyến đò dọc của người cha đi từ bến Son để suốt đời dòng nước Linh Giang thao thiết chảy.


Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông

Nhà mình gần ngã ba sông. Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình. Linh Giang sông núi hữu tình. Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con. "Chèo thuyền cho khuất bến Son. Để con khỏi chộ nước non thêm buồn". Câu ru quặn thắt đời con. Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ.  Ra đi từ bấy đến chừ. Lặn trong sương khói bến đò sông quêNgày xuân giữ vẹn lời thềNon sông mở cõi, tụ về trời Nam.


Hoàng Kim




Đò dọc Trường Giang


Nguyên Ngọc


SGTT.VN - Đời người, hoá ra là ai cũng có một con sông, hoặc gắn với nơi mình sinh ra, hoặc do duyên số thế nào đó mà mình gặp về sau trên đường đời, rồi thân thiết.

Gần đây, một nhà bác học đã viết một cuốn sách rất thú vị, nhan đề Tất cả chúng ta đều là cá. Quả thật tổ tiên xa xôi nhất của chúng mình là cá. Rồi mới mò mẫm bò lên bờ, trằn trọc sống lưỡng cư, rất lâu sau mới mọc thêm vú, cuối cùng vật vã đứng lên trên hai chân để cố nhìn thấy cuộc đời cho xa hơn đôi chút. Và thành người… Vậy đó, trong sâu kín nhất của mỗi chúng ta đều có nước, một dòng nước, một con sông…
Tôi cũng có con sông của mình, Trường Giang. Dân Quảng Nam chúng tôi có thói ưa phóng đại, cái gì cũng nói vống lên cho thật to, tiếng Quảng gọi là “nói dốc”. Con sông ngắn củn, chỉ trên dưới năm mươi cây số, mà dám xưng Trường Giang, nghe như Đại Trường Giang bên Tàu! Năm mươi cây và cạn xợt. Nhưng lại vô cùng độc đáo. Mọi con sông trên trái đất ắt đều phải từ trên núi đổ xuống. Riêng nó, Trường Giang của chúng tôi, chẳng cần núi non gì hết, nó chảy từ một cửa biển này sang một cửa biển khác, nối cửa Đại Hội An với cửa Lỡ và cửa Đại Áng, tức cửa Chu Lai bây giờ, nơi Lê Thánh Tông từng giấu hàng vạn chiến thuyền chuẩn bị đi đánh Đồ Bàn của Chămpa... Sông chảy ngang, song song với bờ biển, nên rất êm, không hề biết đến thác ghềnh. Và vì nối liền hai cửa biển nên nó hưởng chế độ thuỷ triều từ cả hai phía, khi triều xuống thì phẳng lì, triều lên nước từ hai cửa đổ dồn ngược, vấp vào nhau, tạo thành một cái ngấn nước nhọn rất lạ, cao đến hơn gang tay, giăng từ bờ bên này sang bờ bên kia, ở quãng trước một cái chợ đông đúc gọi là chợ Tây Giang. Hai bên sông ngày trước nhộn nhịp hàng loạt chợ trù phú. Quế Trà Mi lừng danh, và cả lâm sản quý của Tây Nguyên mà Christopho Borri khi tới Quảng Nam mấy trăm năm trước từng kinh ngạc, đều được chở từ núi xuống Tam Kỳ, rồi theo Trường Giang, con quốc lộ nước tuyệt vời ấy mà về cảng thị Hội An.

Còn với tôi, gần gũi hơn, đấy là con sông sinh thành. Chính con sông ấy, Trường Giang, đã sinh ra tôi. Sinh ra, thật vậy, tuyệt đối nghĩa đen, không hề bóng gió. Sự thể là thế này…
Quê mẹ tôi, chính xác hơn là quê bà ngoại tôi, ở chợ Hưng Mỹ, một chợ nổi tiếng ven sông Trường Giang. (Tôi nói “ven sông” chứ không nói tả ngạn hay hữu ngạn, bởi vì một con sông không đổ từ trên núi xuống, mà chảy ngang từ một cửa biển này sang một cửa biển khác, thì hai bờ của nó bình đẳng, biết bên nào là phải bên nào là trái?)
Hưng Mỹ cách Hội An bao nhiêu nhỉ? Không gian được đo bằng thời gian: cách một đêm đò. Tôi ở Hội An, hè về quê ngoại Hưng Mỹ, sẩm tối xuống đò ở bên Triều Châu (tên xưa của bến Bạch Đằng), ngủ một đêm, sáng tới chợ Hưng Mỹ. Hết hè, từ Hưng Mỹ quay ra Hội An, tối xuống đò ở bến chợ, ngủ một đêm, sáng mai thức dậy, thấy phố Hội. Những con đò như vậy gọi là đò dọc. Đò ngang từng đi vào ca dao. Đò dọc chẳng kém. Hồi nhỏ tôi thường nghe bà ngoại, rồi mẹ tôi hát: “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc mẹ liều con hư…” Tôi nhớ hình như bà ngoại tôi hát có mỗi một lần, rồi thì chỉ mẹ hát. Trong khi ngoại ngồi lặng, ngẩn ngơ nhìn mãi ra xa, nơi dòng Trường Giang ngày đêm lặng lẽ trôi, khuất sau những bờ tre ngày xưa dày và xanh um, tít tắp.

Đò dọc khác đò ngang. Đò ngang chỉ đưa người sang sông. “Đưa người ta không đưa sang sông…” bởi đò ngang sang sông là hết. Gặp gỡ thoáng chốc, rồi đi biệt. Đò dọc khác. Ấy là những con đò lớn hơn đôi chút, có mui bằng tre, chèo tay, lờ đờ trôi, ở cái thời người ta còn thừa mứa thời gian, sống rất chậm, thư thả, thong dong, không bị cuộc sống thúc bách hối hả trăm sự nhiêu khê như ngày nay, mà nói cho cùng thì do tự mình gây ra cho mình cả thôi.

Đêm đò, trăng sáng hay trăng lu, người chèo đò thong thả vừa chèo vừa hát, ghẹo các cô gái trên các bến hai bên bờ, các cô chẳng vừa, thường cất lời hát đối đáp, suốt đêm trên con sông dài ngân nga một cuộc biểu diễn kỳ lạ. Cũng có thể đã nên những mối tình nào đó, thoáng qua, bởi đêm nào họ cũng hát, cũng đối đáp, dào dạt, say mê, mà có bao giờ họ gặp nhau đâu, người dưới nước kẻ trên bờ, người trên thuyền trôi nổi, người ở lại ngóng theo, cũng chẳng hề nhìn rõ mặt nhau dù trăng sáng hay lu, dưới nước hay trên bờ đều mờ ảo, chỉ nghe và quen, say tiếng hát của nhau, có thể đêm nào cũng nghe, có thể đêm nào cũng chờ, người trên bến chờ chiếc đò “của mình” đi qua để nghe một câu hát chào, hát ghẹo, để hát với theo một câu đối đáp, chưa hết câu hát thì đò đã đi mất. Thật lạ, đêm nào cũng “gặp”, cũng nghe, cũng hướng, cũng tưởng về nhau, mà đêm nào cũng dở dang, mãi mãi dở dang…

Còn trên đò, trong khoang, con trai con gái nằm lẫn với nhau, bóng đêm và sông nước khêu gợi, và những câu hát kia nữa, thúc giục, dụ dỗ. Đi đò là thiên hạ ngẫu nhiên, nửa lạ nửa quen, là tình cờ một đêm, là duyên nợ một lần, như thật như hư, gặp đó rồi xa đó, chẳng cần mấy giữ gìn, có thể buông những câu hát rất táo bạo, ỡm ờ, dè dặt hay liều lĩnh, nhẹ nhàng hay sấn sổ, tục thanh, thanh tục, gợi tình… Biết bao nhiêu cuộc tình đã được kết trong những đêm đò dọc ấy, có thể đến bến sẽ tan, một đêm sông nước phù du, mà cũng có thể sẽ đậu nên duyên số trọn đời… Con gái đi đò dọc “mẹ liều con hư” là vậy.

Mà chắc gì đã là hư. Tôi cứ nghĩ mãi không biết có phải ông ngoại tôi đã gặp bà ngoại tôi và phải lòng nhau trên một chuyến đò dọc Hưng Mỹ – Hội An hay Hội An – Hưng Mỹ? Ồng ngoại tôi người Hà Tĩnh, quê làng Uy Viễn, Nghi Xuân, là cháu đích tôn gọi cụ Nguyễn Công Trứ bằng ông nội. Ông ngoại tôi, hẳn là một ông đồ Nghệ Tĩnh, hơn một thế kỷ trước khăn gói vào Nam dạy học và, tôi đoán thế, chắc đã gặp một cô gái làng Hưng Mỹ trên một chuyến đò dọc Trường Giang xuôi về phố Hội. Gen của cụ Thượng Trứ mà, 73 tuổi còn bỡn con gái người ta “ngũ thập niên tiền nhị thập tam”, và lên chùa còn “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”, lại trêu cả Phật “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Ôi ông đồ Nghệ ngật ngưỡng là cụ ngoại tôi hơn thế kỷ trước. Mẹ tôi đã được sinh ra từ cuộc tình duyên sông nước Trường Giang ấy, tôi vẫn ngờ vậy. Khi tôi đến tuổi hiểu biết đôi chút thì ông ngoại mất đã lâu, tôi chỉ biết bà ngoại, bà thương tôi nhất trong các cháu, đêm bà ôm ru tôi ngủ bằng những câu ca đằm thắm ngân nga, hẳn những câu xưa bà từng hát đối đáp với ông tôi…

Vâng, với tôi Trường Giang, như thế đó, là con sông sinh thành. “Trồng trầu thả lộn dây tiêu – Con đi đò dọc...” Cám ơn những người mẹ đã biết, đã dám “liều”, để cho những đứa con, rồi những đứa cháu, chắt hạnh phúc được ra đời…

Nguyên NgọcNguồn: SGTT.VN

(*) Nhà văn Nguyên Ngọc tên thật là Nguyễn Văn Báu, bí danh khác Nguyễn Trung Thành, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 tại Đà Nẵng, quê huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là nhà văn, nhà văn hóa - giáo dục dấn thân. Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại biểu Quốc hội Khóa 4. Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tổng Biên tập Báo Văn Nghệ. Trưởng ban sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam. Chủ tịch HĐQT Đại học Phan Châu Trinh. Chủ tịch HĐKH Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh

Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính

Hoàng Kim
, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, KimTwitter, KimFaceBookCassavaViet, foodcrops.vn

Không có nhận xét nào:

QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI



Hoàng Kim


Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà không thấy sách báo nào nhắc đến hơn ba mươi năm qua.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

Tôi đã giới thiệu những bài thơ Qua đèo Ngang xướng họa này tại trang DAYVAHOC (http://blogtiengviet.net/DAYVAHOC), THƠ CHO CON (http://my.opera.com/hoangkim1) và thầy tôi Nguyễn Khoa Tịnh đã có bài thơ cảm động "Em ơi em can đảm bước chân lên!" viết từ thuở ấy! Tôi đã đăng ở trang này (http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam) để minh chứng sự thật đó.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ "Nguyên tiêu" nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ "Trung Nam Hải" từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ trên của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới có khác một chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ "Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân" và không đơn giản dịch là "Tìm bạn không gặp". Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam "chiến đấu trong vòng vây"; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.